Truyền thống
Điện báo viên ra trận
(08/01/2025 16:36:34)
Khi miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất chưa được bao lâu thì quân và dân ta lại bước vào cuộc chiến mới - chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi bờ vực của thảm họa diệt chủng, chặn đứng âm mưu chia rẽ truyền thống đoàn kết của ba nước Đông Dương… Để bổ sung lực lượng cho chiến trường, cùng với nhiều cán bộ, viên chức, sinh viên nhập ngũ, còn có các phóng viên, kỹ thuật viên của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN). Nội san Thông tấn xin giới thiệu những ký ức của điện báo viên Nguyễn Văn Phúc, học viên khóa GP12 của TTXVN, về trận đánh có một không hai, “cú lừa lịch sử” nghi binh tiêu diệt sư đoàn địch ở đường vành đai biên giới Tây Nam, tháng 12/1978.
![]() |
Điện báo viên Nguyễn Văn Phúc (thứ hai bên phải hàng ngồi) cùng đồng đội sau khi rời chiến trường Campuchia lần thứ nhất, năm 1979 |
1. Tháng 4/1977, quân Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng thuộc tỉnh An Giang và tàn sát nhiều dân thường. Đặc biệt, đêm 30/4, Khmer Đỏ đồng loạt tấn công vào 14 xã biên giới An Giang, tàn sát người dân vô tội, đốt phá nhà cửa, làng mạc… Đầu năm 1978, lực lượng Pol Pot thành lập 15 sư đoàn, chuẩn bị tấn công dọc biên giới Tây Nam nước ta. Trước tình hình biên giới Việt Nam - Campuchia hết sức căng thẳng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định điều động các đơn vị chính quy chốt chặn dọc tuyến biên giới, chống trả quyết liệt và đã kìm bước tiến của quân Khmer Đỏ.
Để bổ sung lực lượng cho chiến trường, ngoài những thanh niên vừa độ tuổi 18 còn có lực lượng cán bộ, viên chức, sinh viên nhập ngũ, trong đó có phóng viên, kỹ thuật viên của TTXVN.
Sau thời gian huấn luyện cấp tốc tại Kim Bảng, Hà Nam, tôi cùng anh Trương Ngọc Du, kỹ thuật viên điện thuộc Cục Kỹ thuật Thông tấn và anh Đào Đình Lợi, kỹ thuật viên ảnh Xí nghiệp ảnh TTXVN được bổ sung vào Trung đoàn 866, Sư đoàn 31, Quân đoàn 3, chốt chặn ở khu vực biên giới tỉnh Tây Ninh. Ban đầu, vì thiếu quân trực tiếp chiến đấu, tôi được điều động vào Tiểu đoàn 3, bổ sung cho đơn vị bộ binh và tham gia trận đánh tập kích tiêu diệt đại đội địch lấn chiếm vào sát trận địa phòng ngự của Trung đoàn. Khi biết tôi đã được đào tạo điện báo viên năm 1973 tại khóa GP12 của TTXVN, trong lúc đơn vị cũng đang thiếu báo vụ, cấp trên điều động tôi về Đại đội thông tin C18 của Trung đoàn. Thực hiện chỉ đạo, tôi vừa khẩn cấp ôn luyện thu phát morse máy 15W theo nhóm chữ số mật mã, vừa học mật danh, mật ngữ, sử dụng thành thạo các loại máy 2W để tăng cường cho các mũi luồn sâu vào lòng địch và các đơn vị chiến đấu, chuẩn bị cho chiến dịch tổng phản công.
Tình hình chiến sự biên giới Tây Nam lúc này rất căng thẳng, sau nhiều lần giành đi, giật lại ở Nam cao điểm 62, cao điểm 105a và 105b, cuối tháng 11/1978, Trung đoàn 866 được lệnh bàn giao trận địa cho đơn vị bạn, rút về tổ chức phòng ngự dọc đường “Trần Lệ Xuân” - tuyến vành đai dọc biên giới giữa Việt Nam và Campuchia thuộc huyện Tân Biên, Tây Ninh. Khi thấy ta rút quân, địch tổ chức lực lượng, thành lập Sư đoàn 174, xây dựng trận địa phòng ngự lâm thời đối mặt với trận địa ta. Hằng ngày, đơn vị chúng tôi vừa xây dựng trận địa chiến đấu với hệ thống hầm, hào kiên cố chống đạn pháo, vừa củng cố lực lượng, bổ sung vũ khí, đạn dược… Khi được cử đi vận chuyển hậu cần cho đơn vị, tôi cảm thấy có điều hơi khác thường, vì chưa có đợt nào phải nhận nhiều đạn dược, lương thực, thuốc men đến thế. Thậm chí, lần đầu tiên cấp đại đội nhận cả vải liệm, túi nilon đựng tử sĩ. Tôi tự nhủ, chuẩn bị cho chiến dịch lớn nên việc chiến đấu và hy sinh là lẽ thường của người lính ở chiến trường.
2. Cuối tháng 12/1978, Trung đoàn 866 nhận lệnh hành quân chiến đấu, bàn giao trận địa cho Tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 977. Tôi cùng với Tiến, báo vụ 2W được cấp trên giao nhiệm vụ ở lại cùng Tiểu đoàn 7, thường xuyên liên lạc với sư đoàn trên tần số cũ. Từ sáng sớm, Tiểu đoàn 7 vừa ổn định đội hình chiến đấu thì địch đã tổ chức nhiều đợt tiến công vào trận địa. Tiếng đạn pháo, cối, B40-41 nổ liên hồi, xen lẫn tiếng súng bộ binh, khói súng, bụi đất mù mịt bao trùm trận địa nhưng Tiểu đoàn 7 vẫn kiên cường đánh trả quân địch, thông tin vẫn liên lạc thông suốt với cấp trên.
Tiểu đoàn 7 với quân số không đủ biên chế, lại bị hao hụt trong quá trình chiến đấu, phải đối chọi với số lượng quân đông gấp nhiều lần của sư đoàn địch với đầy đủ trang bị. Thật là một trận chiến không cân sức! Địch tấn công vào hướng chính diện, nhiều lần trong ngày đánh vào trận địa, đều bị ta đánh bật trở lại, cả địch và ta đều bị thương vong. Trận địa của trung đội phía trước tiểu đoàn bộ vốn là trận địa của cấp đại đội, với chiều rộng phòng ngự lớn, quân số chỉ có hơn chục tay súng, nên các chiến sĩ phải cơ động hết vị trí chiến đấu này sang vị trí hỏa lực khác để chống trả quân địch…
Đến chiều, trung đội bị thương vong gần hết, chỉ còn duy nhất một chiến sĩ vẫn không rời trận địa, kiên cường đánh trả quân địch cho đến khi hết đạn, anh được cấp trên cho phép rút về sau. Về tới tiểu đoàn bộ để băng bó, chăm sóc y tế, anh kể bằng cách viết ra giấy về việc mình đã sử dụng nhiều loại vũ khí và bắn tới hơn ba chục quả đạn B40 vào đội hình tiến công của địch đến mức điếc cả hai tai...
Thấy tình hình ngày càng căng thẳng, anh Mầm, Tiểu đoàn trưởng lệnh cho tôi gọi pháo binh sư đoàn chi viện, bắn ngăn chặn bước tiến công của địch. Một lát sau, pháo bắn thử để chỉnh tọa độ cho chuẩn. Lúc đó tôi đang đứng ở cửa hầm để quan sát, bỗng nghe tiếng “xoẹt”. Với kinh nghiệm và linh tính mách bảo đạn pháo đang ở ngay trên đầu, tôi chỉ kịp thụt đầu vào cửa hầm, đã nghe tiếng nổ ngay cạnh hầm, may không ai thương vong, chỉ có chiếc nồi quân dụng trúng quả đạn pháo tan thành nhiều mảnh. Tiểu đoàn trưởng bảo tôi điện ngay cho pháo binh sư đoàn dừng bắn, vì địch đã rất gần với trận địa của ta, đồng thời động viên chúng tôi chiến đấu đến cùng, thà hy sinh chứ không rời trận địa.
Chiều muộn, tiếng súng thưa dần và khi màn đêm buông xuống, chỉ còn lác đác tiếng súng bộ binh ở phía trước. Tiểu đoàn 7 nhận được lệnh rời trận địa, nhanh chóng hành quân, nhập vào đội hình chiến đấu của Sư đoàn. Tờ mờ sáng hôm sau, từ đường 78 và đường 7, các đơn vị từ các hướng, các mũi tiến vào bằng xe quân sự, khép góc tại ngã ba Kơ Rếch, hình thành thế bao vây tiêu diệt địch. Tiểu đoàn 7 được xe của sư đoàn đón ở cánh rừng sát mé lộ. Xe chạy nhanh, dọc theo đường 7, tôi thấy cứ khoảng năm trăm mét lại xuất hiện một chiếc xe tăng T54 quay súng về hướng địch, xen giữa các xe tăng là đội hình bộ binh đã sẵn sàng chiến đấu… Tiểu đoàn 7 được giao chốt chặn đoạn đường sát với ngã ba Kơ Rếch, cùng với các đơn vị bạn khép chặt vòng vây, tiêu diệt, bắt sống và làm tan rã toàn bộ sư đoàn địch.
3. Hoàn thành nhiệm vụ, tôi và Tiến được lệnh trở về đơn vị. Đến lúc đó, tôi mới biết nguyên do Tiểu đoàn 7 lót vào trận địa cùng với hai báo vụ và máy PRC25 của Trung đoàn 866 là nhằm nghi binh lừa địch, để Trung đoàn 866 rút ra, bí mật luồn sâu đánh vào phía sau lưng sư đoàn 174 của địch, kết thúc trận đánh với thắng lợi giòn giã: tiêu diệt, bắt sống toàn bộ chỉ huy và trận địa pháo 105 ly của địch. Trong khi đó, ba trung đoàn địch phía trước không hề hay biết gì, bởi Tổ đài của chúng tôi vẫn giữ vững liên lạc, giọng đọc mật danh, mật ngữ của tôi và Tiến vẫn đều đều và rất quen thuộc với địch, khiến cho chúng tưởng vẫn đang đánh nhau với Trung đoàn 866.
Đến chiều, khi không liên lạc được với sư đoàn, địch vội vã rút lui thì trở tay không kịp. Chúng mau chóng nằm gọn trong vòng vây của xe tăng, pháo binh, tầm hỏa lực khống chế, tiêu diệt của các đơn vị bộ binh ta. Hệ thống phòng ngự dọc tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia bị chọc thủng, địch hoảng loạn bỏ trận địa, rút về phía sau. Thừa thắng, các quân đoàn chủ lực và quân khu 5, 7, 9 tổng tiến công thần tốc trên toàn tuyến biên giới, mở màn cho chiến dịch I và kết thúc thắng lợi với việc giải phóng thủ đô Phnom Penh và các tỉnh phía Đông sông Mekong.
4. Sau trận đánh này, tôi tiếp tục tham gia phục vụ nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch khác, lúc mang máy 2W theo nhóm trinh sát vào hậu phương địch; khi cùng tổ máy 15W thuộc các tiểu đoàn đánh chính diện ở Kampong Cham, Svay Rieng, Kratie,; lúc lại mang máy 2W đi theo tiểu đoàn luồn sâu ở Kampong Thom, Siem Reap hay truy quét địch ở Pursat, Barombong… cho đến khi kết thúc chiến dịch IV giải phóng Tà Sanh, Rovieng, sào huyệt chỉ huy cuối cùng của Khmer Đỏ. Đến tháng 6/1979, đơn vị được lệnh hành quân trở về bảo vệ biên cương phía Bắc của Tổ quốc.
Tháng 8/1979, tôi được cử về học tập, công tác tại trường Sĩ quan lục quân. Sau 9 năm quân ngũ, tôi được chuyển ngành trở lại công tác tại TTXVN. Nhiều năm sau, ký ức về mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch là những kỷ niệm không bao giờ quên. Riêng trận đánh có một không hai, “cú lừa lịch sử” nghi binh tiêu diệt sư đoàn địch ở đường vành đai biên giới đã khắc sâu trong tâm khảm của tôi. Chiến công của trận đánh này cùng với việc giải phóng Tà Sanh đã góp phần vào thành tích chung của đơn vị, tô thắm truyền thống vẻ vang của Trung đoàn 866 hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang trên chiến trường Tây Nam./.
CÁC TIN ĐÃ ĐĂNG:
Nhớ về khóa phóng viên đầu tiên (11/12/2024 14:03:24)
Ban biên tập Ảnh TTXVN: 65 năm cần mẫn chép sử vàng (05/12/2024 09:09:39)
Kỷ niệm 70 năm ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2024): Chúng tôi tiếp quản Thủ đô (07/11/2024 09:39:31)
Ký ức Thông tấn (06/11/2024 15:52:42)
Ký ức Thông tấn (02/10/2024 08:53:22)
Kỷ niệm 79 năm Ngày truyền thống TTXVN (15/9/1945-15/9/2024): Ngày đầu vào nghề (13/09/2024 10:37:17)
Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật: Trần Tuấn và những bức ảnh chân thực về Đại tướng (13/09/2024 10:35:19)
Ký ức Thông tấn (09/09/2024 13:56:14)
Nỗi khát khao được cầm bút (07/08/2024 16:26:51)
Ký ức Thông tấn (03/07/2024 09:34:51)